LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Hiểu theo nghĩa chung nhất, quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quổc tế.
C. Mác là nhà khoa học, nhà tư tưởng vĩ đại có những cống hiến to lớn, mang ý nghĩa bước ngoặt, có tính thời đại đối với sự phát triển của tư tưởng nhân loại, đặc biệt là về con người, giải phóng con người nói chung, quyền con người nói riêng. Từ sự kế thừa quan điểm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã góp phần khắc phục được khuynh hướng xem xét con người một cách trừu tượng. Khi nghiên cứu bản chất con người, C.Mác chỉ rõ: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (1). Đây là cơ sở khoa học cốt lõi để xem xét, đánh giá vấn đề quyền con người. Ông cho rằng, về nguồn gốc, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Do đó, quyền con người không phải là sự ban phát của Thượng đế. Mặc dù bắt nguồn từ các quyền tự nhiên, nhung quyền con người không phải tự nhiên mà có. C.Mác đánh giá cao quan điểm của Hêghen: “Nhân quyền không phải là bẩm sinh mà là sản sinh ra trong lịch sử” (2). Nhưng lịch sử, theo C.Mác, là lịch sử hiện thực của con ngườt, do con người viết bằng hoạt động thực tiễn của mình. C. Mác cũng cho rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề quyền con người cần phải đặt vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định.
Học thuyết Mác đề cao con người và sự nghiệp giải phóng con người, nhấn mạnh quyền và tự do của con người không tách rời quyền và tự do của mỗi dân tộc. Quyền tự do của mỗi dân tộc, trước hết là quyền tự quyết dân tộc, là một bảo đảm vững chắc để có thể hiện thực hóa đầy đủ các quyền con người. C.Mác chỉ rõ, một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì chính dân tộc đó cũng không thể có tự do.
Quyền con người là một thành tựu của nhân loại, nhưng đó mới chỉ là một nấc thang của sự phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Bình đẳng không chỉ còn hạn chế trong những quyền lợi chính trị, mà đã mở rộng ra đến cả địa vị xã hội của mỗi cá nhân; không những phải xóa bỏ đặc quyền giai cấp mà còn phải xóa bỏ ngay cả những sự khác biệt giai cấp” (3) .
C. Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, song các ông cũng chỉ ra những mặt hạn chế của xã hội tư bản trong việc bảo vệ quyền con người. C.Mác từng vạch rõ: “Sự việc sau đây cũng nói lên cái tính chất đặc thù tư sản của những quyền của con người ấy: hiến pháp của nước Mỹ, hiến pháp đầu tiên thừa nhận quyền của con người, đồng thời cũng lại chuẩn y luôn cả chế độ nô lệ của người da mầu đang tồn tại ở nước Mỹ; đặc quyền giai cấp bị cấm chỉ, đặc quyền chủng tộc được thần thánh hóa” (4).
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh, chỉ trong xã hội cộng sản mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng mới được giải quyết một cách trọn vẹn: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(5).
Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, thành lực lượng áp bức, thống trị các dân tộc, V.I.Lênin kiên quyết ủng hộ quyền đấu tranh khẳng định quyền tự quyết dân tộc, cả về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế. Đóng góp nổi bật của V.I.Lênin đối với lý luận về quyền con người còn là tư tưởng về xây dựng chế độ dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động và con đường giành quyền tự quyết của các dân tộc. Nét đặc sắc, thể hiện tính hơn hẳn của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là đã chuyển quyền con người từ lĩnh vực lý thuyết thành hiện thực. Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1917, Nhà nước Nga Xôviết đã tôn trọng trên thực tế quyền tự quyết của các quốc gia dân tộc vốn là thuộc địa của nước Nga Sa Hoàng và kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.
Trong tiến trinh xây dựng xã hội mới, V.I.Lênin đưa ra một trong những tiêu chí phân biệt nền dân chủ vô sản với các nền dân chủ trước đó: “Dân chủ vô sản là chế độ thống trị của đa số với thiểu số, vì lợi ích của đa số” (6). Ông cũng chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn. Từ nhận thức này, V.LLênin đề xuất và lãnh đạo tiến trinh hiện thực hóa quyền tham gia của nhân dân lao động trong quản lý nhà nước và xã hội; thực thi dân chủ trên thực tế ngay những ngày đầu thành lập chế độ mói ở nước Nga. Dưới chế độ Xôviết tại Nga, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương luôn được quan tâm, bảo vệ; quyền của phụ nữ, trẻ em được nâng niu, trân trọng bằng những chính sách và hoạt động cụ thể...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quyền con người là sự kết hợp giữa chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa với truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc Việt Nam, giữa lý luận mác-xít và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm trên được Người thể hiện bằng bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, ngay trong ngày khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” (7 (Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945). Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới năm 1945, không chỉ nhằm công bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia độc lập, có chủ quyền mà còn là một bản tuyên ngôn về quyền con người của Việt Nam và khẳng định nhân dân Việt Nam quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng để bảo vệ giá trị thiêng liêng đó. Tuyên ngôn Độc lập và Cánh mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh phá tan hệ thống thuộc địa thế giới, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ giành độc lập dân tộc từ châu Á, châu Phi đến Mỹ La-tinh thời kỳ giữa thế kỷ XX. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 còn là một đóng góp lớn lao vào tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Lần đầu tiên, các quyền tự do cá nhân được mở rộng thành quyền dân tộc, đó là độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết. Những đóng góp đó vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.
Kế thừa và phát huy giá trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống văn hoá dân tộc, quan điểm nhất quán và xuyên suốt về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, con người và quyền con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Nội dung cơ bản đó là: 1- khẳng định quyền con người là thành quả và khát vọng chung của nhân loại; 2- Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản, nhân quyền không được cao hơn chủ quyền; 3- Giải quyết các vấn đề cụ thể về quyền con người phải kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù; 4- Quyền con người mang tính giai cấp; 5 - Quyền con người ở Việt Nam được thể hiện trong quyền và nghĩa vụ công dân, thực hiện quyền con người gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ hoá xã hội; 6- Chúng ta chủ trương giải quyết vấn đề quyền con người bằng đối thoại hoà bình và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.Như vậy, học thuyết Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương đấu tranh giành lại quyền con người trên thực tế cho tất cả mọi người, nhất là quyền con người của nhân dân lao động và các nhóm yếu thế trong xã hội; đặt cuộc đấu tranh vì quyền con người trong tiến trình giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là giải phóng Nhân dân khỏi áp bức bóc lột, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; bảo đảm xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chính vì vậy, cùng với quá trình đổi mới tư duy về kinh tế nhằm thúc đẩy và phát triển mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội thì vấn đề đổi mới tư duy về quyền con người cũng luôn được Đảng chú trọng quan tâm. Với tư cách là Đảng cầm quyền, thông qua Văn kiện, Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn… Đảng đã lãnh đạo một cách toàn diện nhằm bảo đảm các quyền của con người, bảo đảm mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình đổi mới tư duy trên lĩnh vực quyền con người, có nhiều kết quả về mặt thực tiễn, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Quá trình đổi mới, Đảng luôn chú trọng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đổi mới tư duy của Đảng, cùng với sự ghi nhận quyền con người với tư cách là một đối tượng tương đối độc lập với quyền công dân trong các văn kiện Đảng, các bản Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người ở Việt Nam.
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”và ghi nhận, bảo đảm quyền cơ bản của con người, như: bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); quyền sống (Điều 19); bảo vệ đời tư và nơi ở (Điều 21, 22); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); bình đẳng giới (Điều 26); bỏ phiếu trưng cầu ý dân (Điều 29); tố tụng công bằng (Điều 31); sở hữu và sở hữu tư nhân (Điều 32); quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); lao động, việc làm (Điều 35); các quyền về văn hóa (Điều 41)…
Trên cơ sở sự ra đời của các bản Hiến pháp – cơ sở pháp lý đầu tiên của các đạo luật, Nhà nước đã cho ban hành và sửa đổi hơn 200 đạo luật nhằm bảo đảm quyền con người tiêu biểu như: Luật An ninh quốc gia năm 2004; Luật Bình đẳng giới năm 2006; Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật Phòng, chống mua bán người năm 2010; Luật Trẻ em năm 2016; Luật Thanh niên năm 2020; Luật căn cước năm 2023; Luật Khám, chữa bệnh năm 2023…
Quyền con người, đảm bảo quyền con người trong thời đại toàn cầu hoá đang có những diễn biến mới và rất phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì và có bước đi, giải pháp đúng đắn, vừa tập trung phát triển kinh tế - xã hội trong nước, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng dân chủ trong Đảng, trong xã hội vừa đẩy mạnh đấu tranh trên trường quốc tế. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải kiên trì nguyên tắc: nhân quyền không được cao hơn chủ quyền, nhân quyền không được phủ nhận chủ quyền.
Ths. Phạm Văn Dũng
Giảng viên: Khoa Lý luận cơ sở
Tài liệu tham khảo
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chỉnh trị quốc gia Sự thật, H.1995, t.3, tr.ll.
(2)C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, t.2, tr.173.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.1995, tr.36.





